Friday, August 11, 2006

NGHI THỨC TỤNG KINH

UNIVERSITY OF DELHI


NGHI THỨC TỤNG KINH

NGHI THỨC TỤNG KINH TRÊN INTERNET.
1/ NGUYỆN HƯƠNG
2/ TÁN PHẬT
3/ LỄ PHẬT ( 3 LỄ )
4/ TỤNG ĐẠI BI THẦN CHÚ
5/ KHAI KINH KỆ
6/ TỤNG KINH DI ĐÀ OR KINH PHỔ MÔN
7/ TỤNG BÁT NHÃ TÂM KINH
8/ TỊNH ĐỘ VÃNG SANH THẦN CHÚ
9/ XƯỚNG BÀI " ÁI HÀ THIÊN XÍCH LÃNG " NIỆM PHẬT
10/ SÁM BÀI THẬP ĐẠI NGUYỆN VƯƠNG
11/ PHỤC NGUYỆN
12/ TAM TỰ QUY Y ( LỄ PHẬT HẾT )
( MUỐN TỤNG PHẦN NÀO THÌ CLICK VÀO PHẦN ĐÓ RỒI TỤNG)

NGUYỆN HƯƠNG



NGUYỆN ĐEM LÒNG THÀNH KÍNH
Wishing to bring forth my utmost sincerity,
GỞI THEO ĐÁM MÂY HƯƠNG
Along with this cloud of incense
PHƯỞNG PHẤT KHẮP MƯỜI PHƯƠNG
To appear in the ten directions,
CÚNG DƯỜNG NGÔI TAM BẢO
As an offering to the Triple Jewels,
THỀ TRỌN ĐỜI GIỬ ĐẠO
Vowing to maintain my faith,
THEO TỰ TÁNH LÀM LÀNH
Following thy true nature to live morally,
CÙNG PHÁP GIỚI CHÚNG SANH
Including sentient beings of the Dharma realms,
CẦU PHẬT TỪ GIA HỘ
Praying the compassionate Buddha for protection,
TÂM BỒ ĐỀ KIÊN CỐ
Firmly maintaining the Bodhi Mind,
XA BỂ KHỔ NGUỒN MÊ
Abandoning the shoreline of suffering and ignorance,
CHÓNG QUAY VỀ BỜ GIÁC
to quickly attain the Ultimate Enlightenment.
NAM MÔ HƯƠNG CÚNG DƯỜNG BỒ TÁT MA HA TÁT

BÀI XƯNG TÁN CÔNG ĐỨC PHẬT



ĐẤNG PHÁP VƯƠNG VÔ THƯỢNG
The Unsurpassed Dharma King.
BA CÕI CHẲNG AI BẰNG
Unequaled in the three world,
THẦY DẠY CỦA TRỜI NGƯỜI
The Master of Gods and Men,
CHA LÀNH CHUNG BỐN LOẠI
The kind Father of four kinds of living beings,
CON MỘT NIỆM QUY Y
If singleđmindedly taking refuge with three,
DIỆT SẠCH NGHIỆP BA ĐỜI
The Karma of three periods will be eliminated,
XƯNG DƯƠNG CÙNG TÁN THÁN
Praising and glorifying Thee,
ỨC KIẾP KHÔNG CÙNG TẬN
The Merits and Virtues obtained are unending.

ĐẢNH LỄ TAM BẢO




NHỨT TÂM ĐẢNH LỄ: NAM MÔ TẬN HƯ KHÔNG, BIẾN PHÁP GIỚI, QUÁ, HIỆN, VỊ LAI
With one mind I now prostrate: Namo to the end of space of all the infinite Dharma realms of the three lifespans of all the ten directions of Buddhas,
THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT, TÔN PHÁP, HIỀN THÁNH TĂNG, THƯỜNG TRỤ TAM BẢO.
Dharmas and virtuous Sangha of the Unchanging Triple Jewels.
( LẠY 1 LẠY )
NHỨT TÂM ĐẢNH LỄ: NAM MÔ TA BÀ GIÁO CHỦ ĐIỀU NGỰ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI
With one mind I now prostrate: Namo the ruler of the Saha World, the 'Sakyamuni Buddha,
PHẬT, LONG HOA GIÁO CHỦ ĐƯƠNG LAI HẠ SANH DI LẠC TÔN PHẬT, ĐẠI TRÍ VĂN
future-born Maiteya Buddha, Great Wisdom Manjusri Maha-Bodhisattva,
THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT, ĐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT, HỘ PHÁP CHƯ TÔN BỒ TÁT, LINH
Great Conduct Samantabhadra Maha-Bodhisattva, Dharma Protectors Maha-Bodhisattvas,
SƠN HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TẠ'T.
( LẠY 1 LẠY)
Mount Gradhakuta Assemmbly of Buddha and Maha-Bodhisattva.
NHỨT TÂM ĐẢNH LỄ: NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI A DI
With one mind I now prostrate: Namo Western Ultimate Bliss World, the greatly compassionate Amitabha Buddha,
ĐÀ PHẬT, ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT, ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG
Greatly compassionate Avalokite'svara Maha-Bodhisattva, Great Strength Mahasthamaprapta Maha-Bodhisattva, Great Vow Ksitigarbha King of Maha-Bodhisattva,
VƯƠNG BỒ TÁT, THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG BỒ TÁT.
and the Ocean Assembly of Peaceful Bodhisattvas.
( LẠY 1 LẠY)

ĐẠI BI THẦN CHÚ



NAMO THE GREAT COMPASSIONATE BUDDHAS AND BODHISATTVAS ASSEMBLY ( 3 times)
The Great compassionate Mantra ( Mahakaruna Dharani)
Namo ratnatrayaya. Namo arya Avalokite'svaraya Bodhisattva Mahasattvaya Mahakarunikaya.
Om! A valoka Lokate Kalati Ishiri Mahabodhisattva. Sabho Sabho Mara Mara Mashi mashi ridhayu Guru guru ghamain. Dhuru dhuru bhashiyati Maha bhashiyati. Dhara dhara Dhirini Shvaraya Jala jala Mahabhamara. Mudhill E hy ehi Shina shina Alashinbalashari. Basha bhasnin Bharashaya. Hulu hulu pra. Hulu hulu shri. Sara sara Siri siri Suru suru Buddhaya buddhaya Bodhaya bodhaya Maitriye Nilakanthi Trissa rana. Bhaya mane Svaha. Sitaya Svaha. Maha Sitaya Svaha. Sitayaye Shvaraya Svaha. Nilakanthi Svaha. Pranila Svaha. Shrisimhamukhaya Svaha. Sarvamahasastaya Svaha. Chakra astaya. Svaha. Padmakesshaya Svaha. Nilakanthepantalaya Svaha. Mopholishankaraya Svaha. Namo ratnatrayaya.
Namo arya Avalokite'svaraya 'svaha.
Om! Siddhyyantu Mantra Pataya 'Svaha.



KHAI KINH KE^.

Vo^ thu*o*.ng tha^. m tha^m vi die^.u pha'p. ; The Dharma incomparable profound and exquisite is rarely met with.
Ba' thie^n va.n kie^'p nan tao ngo^. ; Even in hundreds of thousands of millions eons;
Nga~ kim kie^'n va*n da*'c tho. tri` ; I am now able to see, listen, accept and hold it;
Nguye^.n gia?i Nhu* Lai cho*n tha^.t nghi~a. ; I vow to understand the true meaning of the Tathagatas' wonderful teachings.
NAMO 'SAKYAMUNI BUDDHA

PHẬT PHÁP CAO SÂU RẤT NHIỆM MẦU
TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP KHÓ TÌM CẦU
NAY CON NGHE ĐẶNG CHUYÊN TRÌ TỤNG
NGUYỆN HIỂU NHƯ LAI NGHĨA THẬT SÂU

TIỂU BỔN KINH DI ĐÀ


Tiểu Bổn Kinh A Di Đà

Hán dịch: nhà Dao Tần, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch
Việt dịch:
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Saigon, Việt Nam

1. Kỳ Viên đại hội.

Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Độc nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như là: Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Đại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Đa, Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già, Nan-Đà, A-Nan-Đà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Đề, Tân Đầu-Lư-Phả-La-Đọa, Ca-Lưu-Đà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Đà, những vị đại đệ tử như thế. Và hàng Đại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi: Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Đa Bồ Tát, Càn-Đà-Ha-Đề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát... cùng với các vị Đại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích-Đề-Hoàn-Nhơn..v..v.. đại chúng cùng đến dự hội.

2. Y báo, Chánh báo.

Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: "Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.

3. Y báo trang nghiêm

Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.

Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la. Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.

Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!

Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao? Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ.

Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi.

Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

4. Chánh báo vô lượng thù thắng.

Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn nại đến nay, đã được mười kiếp.

Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.

Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.

Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!

Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.

5. Nhơn sanh vãng lai

Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.

Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.

Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.

6. Sáu phương Phật đồng khuyên tin

Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Đăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là Kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?

Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.

Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

7. Thuyết kinh rất khó

Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy: "Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này". Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó! Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La, v..v.. nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra. Phật nói kinh A Di Đà.

---o0o---

Thích Nghĩa:

1. Trong kinh này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng trang nghiêm của đức Phật a Di Đà Phật.

2. Triều Tấn (Tàu), Diệu Hưng chiếm một phần đất xưng Vương, quốc hiệu là Tần nên gọi là Diệu Tần. Bậc thông hiểu tam tạng kinh, luật và luận, có thể giảng nói để dạy mọi người nên gọi là Tam Tạng Pháp Sư. Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Tàu làm một nhà dịch kinh chữ Phạn ra chữ Tàu có danh tiếng nhất.

3. Ông Cấp Cô Độc Trưởng Giả mua khu vườn của ông Kỳ Đà Thái Tử, con vua Ba-Tư-Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn rừng cây trong đó, rồi hai người chung sức nhau dựng Tịnh Xá dể thỉnh Phật cùng chúng hội về ở. Do đó nên hiệp cả hai tên của hai người để đặt tên chốn ấy mà gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên vậy. Đệ tử của đức Phật rất đông, không phải chỉ có 1.250 người, nhưng vì 1.250 vị Đại A-La-Hán nầy là những vị được Phật độ trước và theo hầu cận bên Phật luôn, nên trong kinh thường ước lược nói số đó.

4. A-Dật-Đa là tên của đức Di-Lặc Bồ Tát. - Càn-Đà Ha-Đề Bồ Tát là ngài Bất-Hưu-Tức Bồ Tát - Thích-Đề-Hoàn-Nhân là tên của Đế Thích, vua cõi trời Đao Lợi.

5. Y báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao rừng v..v.. gọi chung là cõi nước, trong đây y báo là nước cưc lạc. - Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời, chim thú..v..v.. trong đây chánh báo là đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát, Thanh Văn ..v..v..

[6]. Cõi nước ta đương ở đây gọi là Ta Bà có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam khổ, bát khổ. Trái lại, bên cõi Cực lạc chỉ thuần có những điều vui sướng, nào tam lạc, bát lạc.

6.1 Khổ ở cõi Ta Bà

Tam Khổ:

1. Khổ khổ: mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, sống nay chết mai nầy đã khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chồng thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng rét..v..v..

2. Hoại khổ: vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành, tang thương xây chuyển, như sương đầu cỏ.

3. Hành khổ: trong mỗi niệm, tâm tưởng, biến chuyển luôn không ngừng.

Bát Khổ:

1. Sanh khổ: ở thai bào tối tăm nhơ uế, lọt lòng khổ trăm bề.

2. Lão khổ: lụm cụm già nua, mắt mờ tai điếc, trí lãng, lưng mỏi, gối dùn, mặt nhăn đầu bạc.

3. Bệnh khổ: đau rên bứt rứt, nhức nhối xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng không được.

4. Tử khổ: ngộp mệt, lộn tròng, méo miệng, chuyển xương, gân rút.

5. Cầu bất đắc khổ: lợi danh không toại, muốn phước trở mang họa, cầu thọ mà yểu vong.

6. Ái biệt ly khổ: cốt nhục phân tán, sanh biệt tử ly.

7. Oán tắng tội khổ: oan gia, đối đầu, cừu thù gặp gỡ.

8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như ngọn lửa phừng phừng không khác.

6.2 Vui ở Cực Lạc

Tam Lạc:

1. Lạc trung lạc: thân cùng độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi xinh, ấm no, khương kiện...

2. Bất biến hoại lạc: thân mạng trường tồn, cõi nước không thiêu diệt...

3. Bất động trí lạc: định huệ dung thông, chánh tri bất động...

Bát lạc:

1. Sanh Lạc: thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa sanh..

2. Vô lão lạc: mãi mãi trẻ trung, không già không yếu...

3. Vô bịnh lạc: hằng hằng khương kiện, không bệnh, không đau yếu...

4. Vô tử lạc: thọ mạng vô cùng, trường sanh bất diệt...

5. Toại nguyện lạc: tùy ý quả toại, y thưc tự nhiên...

6. Vô ái biệt ly lạc: bạn lành hải chúng, thân cận không rời..

7. Vô oán tắng hội lạc: thuần là Thượng-Thiện-Nhân, đồng tâm xứng ý..

8. Vô ngũ ấm thạnh lạc: thân tâm thanh tịnh, thường trụ không dời..

Không đâu khổ bằng Ta Bà, không đâu vui bằng Cực Lạc, vì thế mọi người nên nhàm lìa chốn Ta bà mà nguyện về chốn Cực Lạc.

7. Bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm bảy báu: vàng ,bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, và mã não. Trong Quán Kinh nói: hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc..v..v.. hoặc có thứ cây thân vàng lá bạc, nhánh lưu ly..v..v.. - Dầu bằng chất thất bửu chớ vẫn là cây sống, cũng như cây bên này bằng chất gỗ.

8. Trong đây nói đất là chỉ thuận theo tiếng nầy mà gọi thế, chớ chính thật cõi Cực Lạc thuần bằng chất vàng.. Tuyệt không có thứ đất bùn cát sỏi. - Tám công đức của nước trong ao bên Cực Lạc: trong sạch, nhẹ nhàng, mát mẻ, ngon ngọt, đượm thuần, êm đềm hòa huỡn, uống vào hết đói khát, và bổ khỏe thân tâm.

9. Người nước Cực Lạc đều có thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi trải qua vô lượng thế giới. Đi kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi vừa suy gẫm tưởng niệm những pháp lành. Phật, Pháp và Tăng... Đi kinh hành có hai điều lợi ích: (1) Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ tà niệm loạn tưởng cùng biếng lười ngủ nghỉ, và (2) điều hoà thân thể, huyết khí lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.

10. Tinh, tấn, niệm, định, huệ: người tu hành có năm đức nầy thời vững chắc trên đường đạo như cây có rễ nên gọi là ngũ căn (cội rễ). Nếu tất cả cảnh duyên không thể khuấy rối làm lay động được, thời năm đức trên gọi là ngũ lực (sức mạnh). Thất Bồ Đề Phần cũng gọi là Thất giác chi (7 đức giác ngộ) là Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Hỉ, Khinh an, Định, và Xả. Bát Thánh Đạo Phần là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định. — trong cõi Ta bà nầy, những loài chim nhiếp thuộc vào súc sanh đạo, một ác đạo trong lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực Lạc thời khác hẳn, không phải là giống vật do tội báo cảm vời sanh ra, mà do thần lực của đức A Di Đà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.

11. Đoạn nầy là đức Phật tự định danh nghĩa của ba đức A di Đà, vì có hai điều vô lượng: (1) Vô lượng quang, (2) Vô lượng thọ, nên đức Phật bên nước Cực Lạc hiệu là a Di Đà.

12. A-bệ-bạt-trí (Phạn âm) Hán dịch là bất thối chuyển, vào bực này thời một mực đi trên đường Thánh thẳng đến thành Phật, không còn bị thối sụt xuống phàm phu hay Tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi Cưc Lạc đều vào bực bất thối cả, trong hàng bất thối lại có vô số bậc nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát (vì Bồ tát chỉ còn là Bồ tát trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thời thành Phật, như hiện nay đức Di Lặc Bồ tát ở cung trời Đâu Suất nội viện là bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát vậy). Các bậc Thượng thiện nhân là chỉ các bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.

13. Cõi Cực Lạc thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức mới được sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu căn lành phước đức rất lớn, đến khi lâm chung đức Phật A Di Đà cùng Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát ..phóng quang đến rước, quyết định đặng sanh cõi Cưc Lạc. - Niệm Phật không còn móng tưởng gì khác, không có mảy may thinh sắc gì khác xen vào, vững vàng không xao động gọi là nhứt tâm bất loạn.

14. Người tu Tịnh Độ phải có đủ ba điều: Tín (tin thật), Hạnh (chuyên tâm niệm Phật) và Nguyện (thiết tha muốn được sanh về cõi Cưc Lạc) Trong ba điều nầy, lòng tin đứng trước cả mà cũng là nền tảng của tất cả căn lành vì thế nên chư Phật ở sáu phương đồng khuyên bảo, cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.

Hằng hà sa số: là số cát sông Hằng. Sông Hằng là con sống lớn bên Thiên Trúc, nguồn từ dãy núi Hi Mã, chảy ngang xứ Thiên Trúc, đổ vào Ấn Độ Dương. Lòng sông và hai bên bãi có cát rất nhiều và rất mịn. Đương thời đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một số lớn quá nhiều thời mượn số cát trong sông Hằng mà nói.

Tướng lưỡi rộng dài biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có một lời nói dối. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn như thế, huống nữa là rộng dài trùm khắp cả thế giới?

Một thái dương hệ là một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giới là một thế giới trải qua ba lần nhân cho số nghìn, nên gọi là Tam thiên đại thiên thế giới [1 tiểu thế giới x 1.000 x 1.000 x 1.000 = Đại thiên thế giới].

Đại thiên thế giới của ta ở đây tên là Ta Bà dịch là Kham khổ ngụ ý rằng trong cõi nầy có vô lượng sự thống khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn kham chịu được.

15. Ngũ Trược: (1) Kiếp trược: kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong thời đại nào mà có các món trược dưới đây thời là thời đại đục nhơ. (2) Kiến trược: Những điêu mê chấp, tà kiến, điên đảo... (3) Phiền não trược: Các tâm niệm bất thiện như tham, sân, si, mạn bất tín... (4) Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ,) hiệp hội sanh diệt chẳng dừng. (5) Mạng trược: Số thọ rất ngắn, sống nay chết mai, mạng sống trong hơi thở. Bốn món trên đây tánh cách nhiễu não, sai lầm, biến đổi vô thường nên gọi là trược (nhơ đục).


THE SMALLER

SUKHĀVATĪVYŪHA SŪTRA

or

The Sūtra on the

Buddha Amitāyus

Translated from the Chinese Version of Kumarajiva

by Nishu Utsuki

The Educational Department of the West Hongwanji

Kyoto, Japan: 1924

Public Domain.

This electronic version may be copied and distributed free and without permission provided that it is not altered in any way.


1. Thus have I heard: Once the Buddha was dwelling in the Anathapindada Garden of Jetavana in the country of Shravasti together with a large company of Bhikshus of twelve hundred and fifty members. They were all great Arhats, well known among people, (to wit): Shariputra the elder, Mahamaudgalyayana, Mahakashyapa, Mahakatyayana, Mahakaushthila, Revata, Shuddhipanthaka, Nanda, Ananda, Rahula, Gavampati, Pindola-Bharadvaja, Kalodayin, Mahakapphina, Vakkula, Aniruddha, etc., all great Shravakas [lit. disciples]; and with many Bodhisattva-Mahasattvas, (such as), Manjushri, Prince of the Lord of Truth, Bodhisattva Ajita, Bodhisattva Gandhahastin, Bodhisattva Nityodyukta, etc., all great Bodhisattvas; and also with a large company of innumerable devas, (such as) Shakrodevanam-Indra, etc.

2. Then the Buddha addressed Shariputra, the elder, and said, 'Beyond a hundred thousand kotis of Buddha-lands westwards from here, there is a world named Sukhavati. In that world there is a Buddha, Amita(-ayus) by name, now dwelling and preaching the law. Shariputra, why is that country named Sukhavati? The living beings in that country have no pains, but receive pleasures only. Therefore, it is called Sukhavati.

3. 'Again, Shariputra, in the land Sukhavati (there are) seven rows of balustrades, seven rows of fine nets, and seven rows of arrayed trees; they are all of four gems and surround and enclose (the land). For this reason the land is called Sukhavati.

4, 'Again, Shariputra, in the land Sukhavati there are lakes of the seven gems, in which is filled water with the eight meritorious qualities. The lake-bases are strewn with golden sand, and the stairs of the four sides are made of gold, silver, beryl, and crystal. On land there are stories and galleries adorned with gold, silver, beryl, crystal, white coral, red pearl and diamond [lit. agate]. The lotus-flowers in the lakes, large as chariot wheels, are blue-colored with blue splendor, yellow-colored with yellow splendor, red-colored with red splendor, white-colored with white splendor, and (they are all) the most exquisite and purely fragrant. Shariputra, the land Sukhavati is arrayed with such good qualities and adornments.

5. 'Again, Shariputra, in that Buddha-land there are heavenly musical instruments always played on; gold is spread on the ground; and six times every day and night it showers Mandarava blossoms. Usually in the serene morning lit. dawn] all of those who live in that land fill their plates with those wonderful blossoms, and (go to) make offering to a hundred thousand kotis of Buddhas of other regions; and at the time of the meal they come back to their own country, and take their meal and have a walk. Shariputra, the Sukhavati land is arrayed with such good qualities and adornments.

6. 'And again, Shariputra, in that country there are always various wonderful birds of different colors, -- swan, peacock, parrot, Chari, Kalavinka and the bird of double-heads [lit. double-lives]. Six times every day and night all those birds sing in melodious tune, and that tune proclaims the Five Virtues [lit. organs], the Five powers, the Seven Bodhi-paths, the Eight Noble Truths, and other laws of the kind. The living beings in that land, having heard that singing, all invoke the Buddha, invoke the Dharma, and invoke the Sangha. Shariputra, you should not think that these birds are in fact born as punishment for sin. What is the reason? (Because), in that Buddha-land there exist not the Three Evil Realms. Shariputra, in that Buddha-land there are not (to be heard) even the names of the Three Evil Realms. How could there be the realms themselves! All those birds are what Buddha Amitayus miraculously created with the desire to let them spread the voice of the Law. Shariputra, (when) in that Buddha-land a gentle breeze happens to blow, the precious trees in rows and the begemmed nets emit a delicate enrapturing tune, and it is just as if a hundred thousand musical instruments played at the same time. Everybody who hears that music naturally conceives the thought to invoke the Buddha, to invoke the Dharma, and to invoke the Sangha. Shariputra, that Buddha-land is arrayed with such good qualities and adornments.

7. 'Shariputra, what do you think in your mind, for what reason that Buddha is called Amita(-abha)? Shariputra, the light of that Buddha is boundless and shining without impediments all over the countries of the ten quarters. Therefore he is called Amita(-abha). Again, Shariputra, the life of that Buddha and of his people is endless and boundless in Asamkhya-kalpas, so he is named Amita(-ayus). Shariputra, since Buddha Amitayus attained Buddhahood, (it has passed) now ten Kalpas. Again, Shariputra, that Buddha has numerous Shravakas or disciples, who are all Arhats and whose number cannot be known by (ordinary) calculation. (The number of) Bodhisattvas (cannot be known) also. Shariputra, that Buddha-land is arrayed with such good qualities and adornments.

8. 'Again, Shariputra, the beings born in the land Sukhavati are all Avinivartaniya. Among them is a multitude of beings bound to one birth only; and their number, being extremely large, cannot be expressed by (ordinary) calculation. Only can it be mentioned in boundless Asamkhya-kalpas. Shariputra, the sentient beings who hear (this account) ought to put up their prayer that they may be born into that country; for they will be able to be in the same place together with those noble personages. Shariputra, by means of small good works [lit. roots] or virtues no one can be born in that country.

9. 'Shariputra, if there be a good man or a good woman, who, on hearing of Buddha Amitayus, keeps his name (in mind) with thoughts undisturbed for one day, two days, three days, four days, five days, six days, or seven days, that person, when about to die, (will see) Amitayus Buddha accompanied by his holy host appear before him; and immediately after his death, he with his mind undisturbed can be born into the Sukhavati land of Buddha Amitayus. Shariputra, as I witness this benefit, I say these words; Every being who listens to this preaching ought to offer up prayer with the desire to be born into that country.

10. 'Shariputra, as I now glorify the inconceivable excellences of Amitayus Buddha, there are also in the Eastern quarters Buddha Akshobhya, Buddha Merudhvaja, Buddha Mahameru, Buddha Meruprabhasa, Buddha Manjughosha, and Buddhas as many as the sands of the River Ganga, each of whom, in his own country stretching out his long broad tongue that covers three thousand greater worlds completely, proclaims these truthful words; All you sentient beings believe in this Sutra, which is approved and protected by all the Buddhas, and in which are glorified the inconceivable excellences (of Buddha Amitayus).

11. 'Shariputra, in the Southern worlds there are Buddha Candrasuryapradipa, Buddha Yacahprabha, Buddha Maharciskandha, Buddha Merupradipa, Buddha Anantavirya, and Buddhas as many as the sands of the River Ganga, each of whom, in his own country stretching out his long broad tongue that covers three thousand greater worlds completely, proclaims these truthful words: All you sentient beings believe in this Sutra, which is approved and protected by all the Buddhas, and in which are glorified the inconceivable excellences (of Buddha Amitayus).

12. 'Shariputra, in the Western worlds there are Buddha Amitayus, Buddha Amitalakshana, Buddha Amitadhvaja, Buddha Mahaprabha, Buddha Mahanirbhasa, Buddha Ratnala kshana, Buddha Shuddharashmiprabha, and Buddhas as many as the sands of the River Ganga, each of whom, in his own country stretching out his long broad tongue that covers three thousand greater worlds completely, proclaims these truthful words: All you sentient beings believe in this Sutra, which is approved and protected by all the Buddhas, and in which are glorified the inconceivable excellences (of Buddha Amitayus).

13. 'Shariputra, in the Northern worlds there are Buddha Arciskandha, Buddha Vaishvanaranirghosha, Buddha Dushpradharsha, Buddha Adityasambhava, Buddha Jaliniprabha, and Buddhas as many as the sands of the River Ganga, each of whom, in his own country stretching out his long broad tongue that covers three thousand greater worlds completely, proclaims these truthful words: All you sentient beings believe in this Sutra, which is approved and protected by all the Buddhas, and in which are glorified the inconceivable excellences (of Buddha Amitayus).

14. 'Shariputra, in the Nadir worlds there are Buddha Simha, Buddha Yacas, Buddha Yashaprabhava, Buddha Dharma, Buddha Dharmadhvaja, Buddha Dharmadhara, and Buddhas as many as the sands of the River Ganga, each of whom, in his own country stretching out his long broad tongue that covers three thousand greater worlds completely, proclaims these truthful words: All you sentient beings believe in this Sutra, which is approved and protected by all the Buddhas, and in which are glorified the inconceivable excellences (of Buddha Amitayus).

15. 'Shariputra, in the Zenith words there are Buddha Brahmaghosha, Buddha Nakshatraraja, Buddha Gandhottama, Buddha Gandhaprabhasa, Buddha Maharciskandha, Buddha Ratnakusumasampushpitagatra, Buddha Salendraraja, Buddha Ratnotpalashri, Buddha Sarvarthadarsha, Buddha Sumerukalpa, and Buddhas as many as the sands of the River Ganges^1, each of whom, in his own country stretching out his long broad tongue that covers three thousand greater worlds completely, proclaims these truthful words: All you sentient beings believe in this Sutra, which is approved and protected by all the Buddhas, and in which are glorified the inconceivable excellences (of Buddha Amitayus).

16. 'Shariputra, what do you think in your mind, why it is called the Sutra approved and protected by all the Buddhas? Shariputra, if there be a good man or a good woman who listens to those Buddhas' invocation of the name (of Buddha Amitayus) and the name of this Sutra, that good man or woman will be protected by all the Buddhas and never fail to attain Anuttara-samyaksambodhi. For this reason, Shariputra, all of you should believe in my words and in what all the Buddhas proclaim. Shariputra, if there are men who have already made, are now making, or shall make, prayer with the desire to be born in the land of Buddha Amitayus, they never fail to attain Anuttara-samyaksambodhi, and have been born, are now being born, or shall be born in that country. Therefore, Shariputra, a good man or good woman who has the faith ought to offer up prayers to be born in that land.

17. 'Shariputra, as I am now praising the inconceivable excellences of those Buddhas, so all those Buddhas are magnifying the inconceivable excellences of myself, saying these words: Shakyamuni, the Buddha, has successfully achieved a rare thing of extreme difficulty; he has attained Anuttara-samyaksambodhi in the Saha world in the evil period of five corruptions -- Corruption of Kalpa, Corruption of Belief, Corruption of Passions, Corruption of Living Beings, and Corruption of Life; and for the sake of all the sentient beings he is preaching the Law which is not easy to accept. Shariputra, you must see that in the midst of this evil world of five corruptions I have achieved this difficult thing of attaining Anuttara-samyaksambodhi, and for the benefit of all the beings I am preaching the Law which is difficult to be accepted. This is how it is esteemed as (a thing of) extreme difficulty.'

The Buddha having preached this Sutra, Shariputra and Bhikshus, and Devas, men, Asuras, etc., of all the worlds, who have listened to the Buddha's preaching, believed and accepted with joy, made worship, and went away.

Buddhabhashita-Amitayuh-Sutra

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH


MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH. QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT HÀNH THÂM BÁT
Maha Prajnaparamita hrdaya Sutra. The Bodhisattva Avolokite'svara, while engaged in the practice of profound Prajnaparamita.
NHÃ BA LA MẬT ĐẠ. THỜI CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG ĐỘ NHỨT THIẾT KHỔ
Perceived that the five aggregates are empty of " Self-existence". Thus he overcame all suffering and troubles.
A'CH.
XÁ LỢI TỬ, SẮC BẤT DỊ KHÔNG, KHÔNG BẤT DỊ SẮC, SẮC TỨC THỊ KHÔNG, KHÔNG
" O 'Sariputra, Form is not different from Emptiness, and Emptiness is not different from Form. Form is Emptiness and Emptiness is Form,
TỨC THỊ SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC DIỆC PHỤC NHƯ THI.
the same can be said of feelings, conceptions, actions, and conciousnesses.
XÁ LỢI TỬ, THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG, BẤT SANH, BẤT DIỆT, BẤT CẤU, BẤT TỊNH,
O 'Sariputra, the characteristics of the emptiness of all Dharmas are that it is not arising, not ceasing, not defiled, not immaculate,
BẤT TĂNG, BẤT GIẢM, THỊ CỐ KHÔNG TRUNG VÔ SẮC, VÔ THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC,
not increasing, not decreasing. For these reasons, in emptiness there are no Form, no feelings, no conceptions, no actions, no conciousnesses;
VÔ NHÃN, NHĨ, TỸ, THIỆT, THÂN Ý, VÔ SẮC, THINH, HƯƠNG, VỊ, SÚC, PHÁP, VÔ NHÃN
no eyes, ear, tongue, body, or mind; no form, sound, odour, taste, touch or mind-object;
GIỚI, NẢI CHÍ VÔ Ý THƯ'C GIỚI, VÔ VÔ MINH DIỆT, VÔ VÔ MINH TẬN, NÃI CHI' VÔ
no eye-elements until we come to no elements of conciousnesses; no ignorance and no extinction of ignorance;
LÃO TỬ, DIỆT VÔ LÃO TỬ TẬN, VÔ KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO. VÔ TRÍ, DIỆC VÔ ĐẮC.
no old age and death, and no extinction of old age and death, no truth of suffering, no truth of the cause of suffering, of the cessation of sufferings or of the path. There is no knowledge and no attainment whatsoever.
DĨ VÔ HỮU ĐẮC CỐ, BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA Y BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CỐ TÂM VÔ QUÁI
By reason of non-attainment, the Bodhisattva dwelling in Prajnaparamita has no obstacles in his mind. Because there is no obstacles in his mind,
NGẠI; VÔ QUÁI NGẠI CỐ, VÔ HỮU KHỦNG BỐ, VIỄN LY ĐIÊN ĐẢO MỘNG TƯỞNG CỨU
he has no fear, and going far beyond all perverted vews, all confusions and imaginations, reaches the Ultimate Nirvana.
CÁNH NIẾT BA`N.
TAM THẾ CHƯ PHẬT Y BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA, CỐ ĐẮC A NẬU ĐA LA TAM MIỆU
All the Buddhas of the past, present and future, by relying on the Prajnaparamita, attain the Supreme Enlightenment.
TAM BỒ ĐỆ`.
CỐ TRI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA, THỊ ĐẠI THẦN CHÚ, THỊ ĐẠI MINH CHÚ, THỊ VÔ THƯỢNG, THỊ VÔ ĐẲNG ĐẲNG CHÚ, NĂNG TRỪ NHỨT THIẾT KHỔ, CHƠN THIỆT BẤT HƯ.
Therefore, one should know that the Prajnaparamita is the great incantation, the incantation of great wisdom, the excelled incantation, the equal of the unequaled incantation. that is capable of allaying all sufferings, true because devoid of falsehood.
CỐ THUYẾT BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CHÚ, TỨC THUYẾT, CHÚ VIẾT:
This is the incantation proclaimed in the Prajnaparamita; the incantation which is proclaimed as follows:
YẾT ĐẾ, YẾT ĐẾ, BA LA YẾT ĐẾ, BA LA TĂNG YẾT ĐẾ, BỒ ĐỀ TA'T BÀ HA.
" GATE GATE PARAGATE PARASAMGATE, BODHI 'SVAHA."

VÃNG SANH TỊNH ĐỘ THẦN CHÚ
NAM MÔ A DI ĐA BÀ GIẠ, ĐA THA GIÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT GIẠ THA, A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, GIÀ DI NỊ, GIÀ GIÀ NA CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
( TỤNG BÀI NÀY 3 LẦN )

ÁI HÀ THIÊN XÍCH LÃNG




ÁI HÀ THIÊN XÍCH LÃNG
Love is full of worry and suffering
KHỔ HẢI VẠN TRÙNG BA
Pain and suffering will become the sea
DỤC THOÁT LUÂN HỒI KHỔ
To get rid of the cycle of birth and death.
TẢO CẤP NIỆM DI ĐÀ
To quickly recite the name of Amitabha Buddha.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI A DI ĐÀ PHẬT
NAMO AMITABHAYA BUDDHAYA
( phải rán niệm Phật cho nhiều )

SÁM BÀI THẬP ĐẠI NGUYỆN VƯƠNG CỦA NGÀI PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT



NHỨT GIẢ LỄ KÍNH CHƯ PHẬT
First, Pay homage and respect to all Buddhas.
NHỊ GIẢ XƯNG TÁN NHƯ LAI
Second, Praise the Thus Come Ones.
TAM GIẢ QUẢNG TU CÚNG DƯỜNG
Third, Make abundant offerings.
TỨ GIẢ SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG
Fourth, Repent misdeeds and evil karma.
NGŨ GIẢ TÙY HỶ CÔNG ĐỨC
Fifth, Rejoice at others' merit and virtues.
LỤC GIẢ THỈNH CHUYỂN PHÁP LUÂN
Sixth, Request the Buddhas to turn the Dharma wheel.
THẤT GIẢ THỈNH PHẬT TRỤ THẾ
Seventh, Request the Buddhas to remain in the world.
BÁT GIẢ THƯỜNG TÙY PHẬT HỌC
Eight, Follow the teachings of the Buddhas at all times.
CỬU GIẢ HẰNG THUẬN CHÚNG SANH
Ninth, Accommodate and benefit all living beings.
THẬP GIẢ PHỔ GIAI HỒI HƯỚNG
Tenth, Transfer all merits and virtues universally.

THP ĐI NGUYN VƯƠNG CHỮ HỚN

者禮敬諸佛。二者稱讚如來。三者廣修供養。四者懺悔業障。五者隨喜功德。六者請轉法輪。七者請佛住世。八者常隨佛學。九者恒順眾生。十者普皆迴向


PHỤC NGUYỆN

TAM BẢO CHỨNG MINH, OAI THẦN HỘ NIỆM, BỒ TÁT, THINH VĂN, PHẠM VƯƠNG, ĐẾ THÍCH, TỨ THIÊN VƯƠNG, CHÚNG THIÊN LONG, BÁT BỘ HỘ PHÁP THẦN VƯƠNG, NHỨT THIẾT THIỆN THẦN, QUANG GIÁNG ĐẠO TRÀNG CHỨNG MINH CÔNG ĐỨC.
PHỤC NGUYỆN, PHONG ĐIỀU VŨ THUẬN, QUỐC THỚI DÂN AN, THIÊN HẠ THÁI BI`NH, CHƯ TAI TIÊU DIÊT.
PHỔ NGUYỆN, HIỆN TIỀN TỨ CHÚNG, PHƯỚC HUỆ SONG TU, MỘT HẬU VÃNG SANH LẠC QUỘ'C.
PHỔ NGUYỆN, ÂM SIÊU DƯƠNG THỚI, HÃI YẾN HÀ THANH, PHÁP GIỚI CHÚNG SANH, TÌNH DỮ VÔ TÌNH TỀ THÀNH PHẬT ĐAO.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

TAM TỰ QUY Y



TỰ QUY Y PHẬT
To the Buddha I myself take refuge,
ĐƯƠNG NGUYỆN CHÚNG SANH
Wishing for all sentient beings,
THỂ GIẢI ĐẠI ĐẠO
to have a complete understanding of the way,
PHÁT VÔ THƯỢNG TÂM.
Bringing for the state of Ultimate Enlightenment. ( prostrate once, lạy 1 lạy)
TỰ QUY Y PHÁP
To the Dharma I myself take refuge,
ĐƯƠNG NGUYỆN CHÚNG SANH
Wishing for all sentient beings,
THÂM NHẬP KINH TẠNG
to penetrate deeply the Buddhist Canons,
TRÍ HUỆ NHƯ HẢI
the obtained wisdom is great as the ocean. ( prostrate once, lạy 1 lạy)
TỰ QUY Y TĂNG
To the Sangha I myself take refuge,
ĐƯƠNG NGUYỆN CHÚNG SANH
Wishing for all sentient beings,
THỐNG LÝ ĐẠI CHÚNG
to attain complete spiritual powers and virtues,
NHỨT THIẾT VÔ NGẠI
Without any any force impeding this progress. ( prostrate once, lạy 1 lạy)
( NHƯ VẬY LÀ ĐÃ XONG PHẦN NGHI THỨC TỤNG KINH. TẠI SAO CHÚNG TÔI LẠI POST PHẦN NGHI THỨC TỤNG NIỆM KINH NẠ`Y. BỞI VÌ CHÚNG TÔI HY VỌNG RẰNG, PHẦN NGHI THỨC TRÌ TỤNG KINH NÀY SẼ GIÚP QUÝ PHẬT TỬ LẬP GIA ĐÌNH NƠI XỨ LẠ QUÊ NGƯỜI, ĐỂ CÓ THỂ NHỚ LẠI KỶ NIỆM THỜI THƠ ẤU ĐÃ TỪNG TỤNG KINH NƠI MỘT NGÔI CHÙA QUÊ HAY NƠI THÀNH THỊ , ĐÃ TỪNG SỐNG TRONG MÁI ẤM GIA ĐÌNH VÀ ĐÀN EM THƠ DẠI, VÀ CÙNG ĐỂ GỢI NHỚ LẠI TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG, YÊU DÂN TỘC VIỆT NAM HIỀN HÒA NHÂN HẬU)

Tứ Hoằng Thệ Nguyện

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Sentient beings are numberless, I Vow to save them all.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Afflictions are inexhaustible, I Vow to end them all.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Dharma doors are boundless, I Vow to master them all.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Buddhahood is unsurpassable, I Vow to attain it.

Nga`y nay lại đã qua rồi

Universal worthy Bodhisattva' s Verse of Exhortation

Ngày nay lại đã qua rồi
This day is already done.
Mạng căn huyết mạch lần hồi khô khao
Our lives are that much less,
Đời người như cá ở ao
We are like fish in a shrinking pond,
khổ thêm thời có chứ nào vui đâu?
What joy is there in this ?
Great assembly!
Cần tu tợ lửa đốt đầu
We should be diligent and vigorous.
Đừng cho sái buổi như chầu Đê' vương
As if our own heads were at stake.
Tấm thân mỏng mảnh vô thường
Only be mindful of impermanence.
Sớm còn tối mất lo phương cứu mình.
And be careful not to be lax.
http://niemphatthanhphat.blogspot.com
http://nammoadidaphat.blogspot.com/ [ dia chi trang blog moi ]

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT



NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Nam Mô A Di Đà Phật

ueh vferkHkk; cq~¼k;

Nam Mô A Di Đà Phật

ueh vferkHkk; cq~¼k;

Nam Mô A Di Đà Phật

ueh vferkHkk; cq~¼k;

VÌ SỰ SANH TỬ

VÌ SỰ SANH TỬ
Because of birth and death,
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
Develop the Bodhi Mind;
LẬP TÍN NGUYỆN SÂU
With deep Faith and Vows,
TRÌ DANH HIỆU PHẬT
Recite the Buddha 's name
http://niemphatthanhphat.blogspot.com

BỒ ĐỀ QUYẾN THUỘC 4




NHỨT CÚ DI ĐÀ VẠN PHÁP VƯƠNG


NHỨT CÚ DI ĐÀ VẠN PHÁP VƯƠNG
The King of all Dharma is the one word " Amitabha".
HÀ SA THẾ GIỚI HIỆN KHÔN LƯỜNG
The five periods and the eight teachings are all contained within it,
NAY CON NGHE ĐẶNG CHUYÊN TRÌ NIỆM
One who singlemindedly remembers and recites His Name.
NGUYỆN TỎ NHƯ LAI BẤT ĐỘNG THƯỜNG
Will enter into the still and bright and unmoving field.

NHỨT CÚ DI ĐÀ VÔ BIỆT NIỆM
(NIỆM ĐỒNG VÔ NIỆM, SANH TỨC VÔ SANH)
To recite is the same as not to recite, no-birth is precisely birth.
BẤT LAO ĐÀN CHỈ ĐÁO TÂY PHƯƠNG
Not bothering to move even half a step, the body has reached the city of Great Enlightenment.
NHỨT CÚ DI ĐÀ VÔ BIỆT NIỆM
This one word Amitabha, without any other, is sufficient in the snapping of a finger to rebirth to the Western Paradise.
BẤT LAO ĐÀN CHỈ ĐÁO TÂY PHƯƠNG
http://niemphatthanhphat.blogspot.com
http://nammoadidaphat.blogspot.com/ [ dia chi trang blog moi ]

NHẤT TÂM BẤT LOẠN



VÔ THƯỜNG

HÔM QUA RUỖI NGỰA CHẠY RONG
He rode on the road, yesterday
HÔM NAY ANH ĐÃ NẰM TRONG QUAN TÀI
He lies in the coffin, today


NHẤT TÂM BẤT LOẠN

Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.

Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.

Tatra khalu punḥÜ 'Sāriputra buddhaksÜetre sattvaḥÜ praṇÜidānamÜ kartavyamÜ | tat kasmād dhetohÜ? Yatta hi nāma tathārūpaḥÜ satpuruṣaihÜ saha samavadhānamÜ bhavati | nāvaramāttakena Ÿ'Sāriputta ku'salamulena amitāyṣÜas tathāgatasya buddhaksÜetre sattvā upapadyante | yaḥ ka's cic chāriputra kulaputro vā kuladuhitā tasya bhagavato ‘mitā-yṣÜas tathāgatasya nāmadheyamÜ 'SroṣÜyati, 'Srutvā ca manasikarṣÜyati, ekarātraṃ dvirātraṃÜ trirātraṃ caturātraṃÜ pañcarātraṃÜÜaḍrÜātraṃÜ saptarātramÜ vikṣÜiptacitto manasikariṣyati yadā sa kulaputro vā kuladuhitālaṃÜ kariṣyati tasya kālaṃ kurvataḥÜ so ‘mitāyuṣ tathāgataḥÜ 'Srāvaka saṃÜghaparivṛÜto bodhisattvagaṇÜapuraskṛÜtaḥÜ purataḥÜ
sthā
syati | so ‘viparyastacittaḥlamÜ kariṣÜyati ca | sa kālaṃÜ kṛÜtvā tasyaivāmitāyaṣÜas tathāgatasya buddhaksÜetre sukhāvatyāmÜ lokadhātāv upapatsyate ! tasmāt tarhi 'sāriputra idam arthava'saṃÜ saṃpa'syamāṇa eva vadāmi satkṛÜtya kulaputrenÜa vā kuladuhitā tatra buddhakṣÜetre cittapranÜidhānam kartavyaṃÜ || 10 ||[1]

r=k [kyq iqu% 'kkfjiq=k cq¼{ks=ks lÙoS% izf.k/kua drZO;e~ A rRdLek¼srks%\ ;=k fg uke rFkk:iS% lg leo/kua Hkofr A ukojek=kds.k 'kkfjiq=k dq'kyewysu vferk;q"kLrFkkxrL; cq¼{ks=ks lÙok mii|Urs A ;% df ÜÓPNkfjiq=k dqyiq=kks ok dqynqfgrk o rL; Hkxorks ¿ ferk;q"kLrFkk&xrL; uke/s;a Jks";fr] JqRok p eufldfj";fr] ,djk=ka ok f}jk=ka ok f=kjk=ka ok prwjk=ka ok i ÜÓjk=ka ok "kM~k=ka ok lIrjk=ka okfof{kIrfpÙkks] eufldfj";fr] ;nk l dqyiq=kksa ok dqynqfgrk ok dkya dfj";fr] rL; dkya dqoZr% lks¿ferk;qLrFkkxr% Jkodla/ifjo`rks cksf/lÙox.kiqjLÑr% ijr% LFkkL;fr A lks¿foi;ZLrfpÙk% dkya fdj";fr p A l dkya ÑRok rL;Sokferk;q"kLrFkkxrL; cq¼{ks=ks lq[kkoR;ka yksd?kkrk oqiiRL;rs A rLekÙkfgZ 'kkfjiq=k bneFkZo'ka lai';eku ,o onfe lRÑR; dqyiq=ks.k ok dqynqfg=kk ok r=k cq¼{ks=ks fpÙkizf.k/kua drZO;e~ AA 10 AA(2)]

"Then again all beings, O 'Sāriputra, ought to make fervent prayer for that Buddha country. And why? Because they come together there with such excellent men. Beings are not born in that Buddha country of the Tathāgata Amitāyus as a reward and result of good works perform in this present life.

No, whatever son or daughter of a good family shall hear the name of blessed Amitāyus. The Tathāgata and having heard it, shall keep it in mind, and with thoughts undisturbed shall keep it in mind for one, two, three, four, five, six or seven nights, when that son or daughter of a family comes to die, then that Amitāyus, the Tathāgata, surrounded by an assembly of disciples and followed by a host of Bodhisattvas, will stand before them at their hour of death, and they will depart this life with tranquil minds. After their death they will been born in the world Sukhāvatī, in the Buddha country of the same Amitāyus, the Tathāgata. Therefore, then, O 'Sāriputra, having perceived this cause and effect, I with reverence say thus. Every son and every daughter of a good family ought with their whole mind to make fervent prayer for that Buddha country.׀׀ 10 ׀׀[1]



[1] F. Max Muller, SBE, Vol. 49, p. 98,99.



[1] Lê Mạnh Thát, Ngữ pháp tiếng Phạn, p. 209.

[2] The Smaller Sukhāvatī-vyūha-Sūtra, Buddhist Sanskrit Texts, Vol. 1 7, ed. by Dr P.L. Vaidya, p. 256.

1/http://niemphatthanhphat.blogspot.com
2/ http://nammoadidaphat.blogspot.com
3/ http://namoamitabhabuddhatheky21.blogspot.com

0 Comments:

Post a Comment

<< Home